Những thành viên của tộc người sống trong hang đá trước khi được Bộ đội Biên phòng phát hiện không biết mình bao nhiêu tuổi, không biết dệt vải và đặc biệt là có một quy ước ăn trầu kỳ lạ.
Ông Hồ Lon không biết mình bao nhiêu tuổi
Tộc người không biết tuổi
Dân tộc Chứt thuộc nhóm Mã Liềng ở bản Rào Tre (xã Hương Liên, Hương Khê, Hà Tĩnh) hiện có khoảng trên 35 hộ với hơn 130 nhân khẩu đang sinh sống. Sáng sớm, từ thị trấn Hương Khê, chúng tôi có chuyến hành trình ngược nguồn lên bản Rào Tre.
Cảnh tượng đầu tiên hiện ra là những ngôi nhà sàn xinh xắn nằm bình yên dưới vách núi chênh vênh. Đầu bản, ông Hồ Lon một mình ngồi ngậm điếu thuốc to bằng ngón tay cái, rít phì phèo ngay trước cửa hiên. Thấy chúng tôi ông chỉ gật đầu.Ông Hồ Lon không biết mình bao nhiêu tuổi
Tộc người không biết tuổi
Dân tộc Chứt thuộc nhóm Mã Liềng ở bản Rào Tre (xã Hương Liên, Hương Khê, Hà Tĩnh) hiện có khoảng trên 35 hộ với hơn 130 nhân khẩu đang sinh sống. Sáng sớm, từ thị trấn Hương Khê, chúng tôi có chuyến hành trình ngược nguồn lên bản Rào Tre.
Đến hỏi ông năm nay bao nhiêu tuổi, ông chỉ lắc đầu rồi nói: Tuổi tác đối với người già ở bản này không ai biết, họ chỉ biết mình sinh ra và lớn lên trong rừng sâu thôi.
Những năm 60 thế kỷ trước, trong một lần đi tuần tra, Bộ đội Biên phòng đã phát hiện một tộc người hoang dã sống trong hang đá giáp ranh giữa Quảng Bình và Hà Tĩnh. Sau đó đưa về bản Rào Tre sinh sống nhưng do chiến tranh ác liệt, đời sống khó khăn họ lại quay về rừng sâu sinh sống. Năm 2001 tộc người này được Bộ đội Biên phòng đưa về bản Rào Tre định cư và bây giờ họ đã có cuộc sống ấm no hòa nhập với cộng đồng Việt.
Nghe ông khoe liên tục, tôi ngắt lời hỏi thế bác năm nay bao nhiêu tuổi rồi, ông đáp: "Mình sinh ra ở hang đá, ngày đó lớn lên mình luôn nghe tiếng nổ vang khắp cả rừng liên tục (tiếng bom, tiếng súng thời chiến tranh) rồi cả tộc người đều tránh trong hang đá không thì bị chết hết, khi về đây mình được bộ đội bày cho học cái chữ mới biết tính tuổi nhưng không nhớ ngày sinh nên mình không biết bao nhiêu tuổi mô".
Cuộc sống người Chứt ở bản Rào Tre bây giờ đã thay đổi nhiều.
Rời hang đá quên đi âm nhạc
Mỗi khi nhắc lại những ngày tháng sống trong hang đá, tộc người Chứt tự hào là nhờ tiếng sáo, tiếng đàn mà những đôi trai gái thành vợ thành chồng và những lễ hội thêm sôi nổi.
Trong nét văn hóa tộc người Chứt có sáo Pi, đàn Muôi, đàn Trơ bon, từ con trai con gái đều biết cách làm và sử dụng. Nhất là đối với những đôi trai gái yêu nhau dùng sáo, đàn thay cho lời nói để hiểu nhau và trở thành vợ chồng. Bên cạnh đó đàn, sáo được dùng trong lễ hội như đám cưới, lễ hội xuống giống, lễ cúng hồn lúa...
Ông Hồ Púc một trong bốn người thổi sáo Pi hay nhất tộc người Chứt ở bản Rào Tre
Cầm cây đàn Trơ bon ngồi trước nhà, đánh những giai điệu vang khắp cả núi rừng khiến cho ai cũng phải dừng chân mà nghe, bà Hồ Thị Sen kể: "Cũng nhờ cái đờn (đàn) này với cái sáo mà tôi với ông Hồ Phương nên duyên vợ chồng. Ngày chúng tôi yêu nhau đêm mô cũng ra ngồi bên suối, ông ấy thì cầm sáo Pi còn tôi cầm cái đờn Trơ bon ngồi cả đêm không nói một câu mô, chỉ dùng nhạc cụ để thay lời nói. Ông thổi một hồi tôi đáp lại một khúc, nhờ tiếng đờn tiếng sáo mà chúng tôi có ngày hôm nay đó".
Nhưng giờ đây, khi về ở bản Rào Tre tiếng đàn, tiếng sáo đã vắng bóng đối với tộc người Chứt. Khi hỏi về những ai biết làm và biết thổi sáo đánh đàn hay, người trong bản cũng nói "còn bốn người nữa thôi".
Bà Hồ Thị Niềm mỗi khi thổi sáo tiếng vang khắp bản ai cũng lắng
mà nghe
Đó là vợ chồng ông Hồ Phương, bà Hồ Thị Niềm và ông Hồ Púc. Vừa làm hai cái sáo Pi xong, người đã già yếu nhưng bà Niềm liền cầm cây sáo Pi thổi và phát ra thứ nhạc khiến cho chúng tôi muốn ngồi cả ngày để được nghe tiếng sáo của bà.
Đã có nhiều lần vợ chồng ông Hồ Phương đem những làn điệu, bản nhạc từ cây sáo, cây đàn dân tộc đi dự hội diễn văn nghệ ở huyện, giao lưu với bộ đội biên phòng… Khi nghe xong ai cũng tán thưởng "không chê vào đâu được".
Thế hệ trẻ không còn yêu thích thứ nhạc cụ của dân tộc mình nữa.
Tục ăn trầu bí ẩn của người Chứt
Ăn trầu là một văn hóa của người dân Việt Nam từ lâu đời, kể cả người Kinh cho đến người dân tộc nhưng ở tộc người Chứt tục ăn trầu có nhiều bí ẩn.
Với người tộc Chứt khi ở trong rừng sâu cho đến ngày về bản Rào Tre sinh sống, họ có một quy ước từ người trước để lại mà người đời sau đến nay luôn thực hiện: Đàn ông không bao giờ được ăn trầu.
Đi đâu, ngồi đâu người phụ nữ dân tộc Chứt cũng miệng lóp lép
nhai trầu suốt ngày
Lý giải cho điều này bà Hồ Thị Mậu nói: Đàn ông thì hút thuốc, uống rượu không được ăn trầu, nếu ăn trầu là có tội với thần linh. Ngày trước sống trong hang đá đàn bà ai cũng hút thuốc nhưng khi ra đây ở được bộ đội biên phòng nói là: Hút thuốc không tốt cho sức khỏe sẽ bị ung thư và nhiều bệnh tật khác nữa nên chị em trong bản đều bỏ thuốc hết rồi.
Trong quy ước của đồng bào, dù con gái già rồi nhưng chưa có chồng, có con là không được ăn trầu. Họ quan niệm, khi chưa lấy chồng sinh con nếu ăn trầu sẽ bị con ma rừng, ma suối…về bắt tội chết (!?).
Bà Hồ Thị Mậu và chị Thiêm ăn trầu với đọt mây, đọt cọ rất ngon lành
Phụ nữ tộc người Chứt bây giờ khi đi lên rừng, đi làm ruộng, đi chợ…họ luôn mang theo một bao trầu bên người để ăn.
Đến nhà nào trong dân bản cũng thấy các chị, các bà đi đâu, ngồi đâu miệng cũng luôn lóp lép nhai trầu liên tục. Với phụ nữ tộc người Chứt khi người này hết người kia còn họ luôn san sẻ cho nhau.
Đây là một trong những truyền thống gắn kết cộng đồng của đồng bào, người này hết cứ xin người khác và họ rất sẵn lòng cho trầu. Hiện miếng trầu đã không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của những phụ nữ nơi đây.