[h=2]Việc tiến hành cắt của quí của nam giới để biến họ thành hoạn quan phục vụ trong cung cấm ở các triều đại phong kiến Trung Quốc đã có nguồn gốc từ rất lâu đời.[/h] Loại trừ những người bị khiếm khuyết khi sinh ra, đa phần hoạn quan đều phải qua những thủ thuật hết sức đau đớn gọi là tĩnh thân. Việc tĩnh thân được diễn ra cụ thể như thế nào, sử sách Trung Quốc xưa ghi lại cũng bất nhất. Nhưng tựu chung, để biến một nam giới bình thường thành một quan hoạn, người này phải trải qua giai đoạn được coi là đau đớn đến tàn khốc nhất trong cuộc đời của họ.
Thái Giám Cung Đình Cuối đời Thanh
“Khi bước những bước chân đầu tiên của cuộc đời quan hoạn, sự đau đớn như từng vết dao cứa vào thân thể và xuyên lên tận óc. Mồ hôi cùng với nước mắt đã hoà vào nhau và ướt đẫm trên đôi chân đó” – một hoạn quan đã miêu tả lại những ngày tháng được cho là cực hình nhất của ông, trước khi trở thành người giúp việc cho hoàng đế Quang Tự- vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến Trung Quốc. Vị thái giám này kể tiếp về cuộc tĩnh thân của mình: “Đi được là một điều may mắn, bởi vì có những người đã không thể đứng lên để bước đi sau lần phẫu thuật tàn khốc đó. Họ đã chết do không thể tiểu tiện được sau 3 ngày hoặc do bị nhiễm trùng quá nặng. Đó là những tháng ngày đau đớn và bi thảm nhất trong cuộc đời tôi”
Dụng cụ tĩnh thân
Dụng cụ "tĩnh thân "
Ba cực hình tĩnh thân
Ngay từ xa xưa trong lịch sử Trung Quốc, người ta đã ghi lại một số cách thức để tạo ra một hoạn quan cho triều đình.
Cách thức đầu tiên được gọi với tên: Cắt tận gốc. Có nghĩa là dùng dao sắc hoặc một vật dụng kim loại như kiếm hoặc rìu cắt đứt tận gốc dương vật của nam giới. Cách thức này được miêu tả như một hình thức vô cùng tàn bạo, vì những người sau khi sử dụng phương pháp này đều rất đau đớn, thậm chí có thể bị hôn mê kéo dài.
Cách thứ hai mà người Trung Quốc sử dụng đó là chỉ cắt bỏ dịch hoàn bằng một con dao sắc. Cách thức này nhân đạo ở chỗ, sẽ không cắt hết toàn bộ cơ quan sinh dục của bệnh nhân, mặc dù vậy họ cũng sẽ không thể quan hệ tình dục và có con. (Thực ra cách này ứ có nhân đạo đâu, mà là vô nhân đạo nhất trong các cách).
Sau khi thực hiện một trong hai cách thức vô cùng đau đớn này, thái giám sẽ lập tức được dìu đi quanh phòng trong hai ba giờ liền trước khi được quyền nằm nghỉ. Điều đặc biệt là trong ba ngày tiếp theo, họ không được ăn uống hoặc tiểu tiện. Sau thời điểm 3 ngày, vải băng được cởi ra và nếu bệnh nhân có thể đi tiểu được ngay thì vụ giải phẫu thành công và qua được thời kỳ nguy hiểm. Còn nếu như người thái giám không tiểu tiện được có nghĩa là đường sinh thực khí đã bị thu hẹp hay bịt kín và chỉ còn đường nằm chờ chết.
Ngoài hai phương pháp tĩnh thân trên, có nhiều gia đình chuẩn bị việc tĩnh thân cho con mình tương lai sẽ làm thái giám ngay từ khi còn nhỏ. Một bà mụ được gia đình thuê để có thể chăm sóc đặc biệt cho đứa trẻ ngay từ khi còn nằm trong nôi. Bà mụ này có một thủ thuật riêng, mỗi ngày ba lần nắn bóp dịch hoàn đứa trẻ. Lực bóp cũng tăng thêm khi đứa trẻ đó lớn, vì thế cơ quan sinh dục của đứa bé dần dần bị hủy hoại. Khi lớn lên không những mất khả năng sinh dục mà dương vật còn teo dần khiến đứa trẻ có nhiều nữ tính, không có yết hầu, hai * nhô cao, mông nở, giọng nói lanh lảnh, dáng điệu ẻo lả và trở thành “ái nam, ái nữ”.
Thái Giám - Bức ảnh nổi tiếng nhất thế giới về thái giám TQ
Số người bị nhiễm trùng dẫn tới tử vong do tĩnh thân trước khi trở thành quan hoạn không phải là ít. Vào đời vua Tuyên Đức thời nhà Minh, khi tiến hành tĩnh thân cho 1565 nam giới để thành hoạn quan phục vụ trong triều đình, đã có gần 400 người chết ngay sau đó do bị nhiễm trùng hoặc không cầm được máu. Cũng vào những đời vua tiếp theo, rất nhiều trẻ em nam đã không được sống đến ngày trở thành những viên quan trong nội đình như bố mẹ chúng mong muốn. Theo sử sách ghi lại, trung bình có ít nhất 20% số người được tĩnh thân đã chết trước khi nhìn thấy lầu son gác tía nơi cung vua, phủ chúa.
Cam kết và chuẩn bị
Ở những đời hoàng đế sau này, người ta đã bắt người làm tĩnh thân cùng gia đình phải cam kết về mạng sống và không kiện cáo nếu cuộc phẫu thuật thất bại. Không những thế trước khi tiến hành, người có ý định tĩnh thân được đặt nằm nghiêng trên một cái giường thấp và được hỏi lần cuối cùng có hối hận gì với quyết định trở thành hoạn quan hay không. Nếu cả gia đình và bản thân người tĩnh thân đều đồng ý thì cuộc tĩnh thân mới được tiến hành.
Tuy nhiên, có hai thứ bắt buộc gia đình người tĩnh thân phải đem đến cho đao phủ, thứ nhất là một cái đầu lợn hoặc gà kèm theo rượu. Hai là ba mươi cân gạo, vài chục bắp ngô, vài cân hạt vừng và vài tờ giấy to bản. Trong những vật phẩm này, gạo và ngô để những người tĩnh thân ăn đủ trong vòng một tháng khi nghỉ ngơi tại chỗ. Vừng được rang lên rồi nghiền nhỏ, trở thành một thứ thuốc giữ ấm cho cơ thể theo bài thuốc cổ xưa. Còn giấy to bản sẽ được dùng để bịt kín cửa sổ, tránh gió lùa khi bệnh nhân vẫn phải nằm một chỗ.
Còn đối với đao phủ, trước khi tiến hành tĩnh thân cho bất kỳ ai, họ đều phải chuẩn bị 2 quả mật lợn tươi và một ít cần sa thối. Mật lợn có tác dụng chống sưng viêm, được đao phủ bôi vào vết thương ngoài của người tĩnh thân. Còn cần sa thối được cho bệnh nhân uống trước khi tiến hành tĩnh thân, có tác dụng như một chất gây mê khiến con người sẽ không cảm thấy đau đớn khi quá trình tĩnh thân diễn ra. Khi “phẫu thuật” tiến hành xong, các đao phủ cũng sẽ cho bệnh nhân uống tiếp cần sa thối để giảm thiểu sự bài tiết qua đường sinh dục.
“Nợ vay – trả” hậu tĩnh thân
Chi phí cho việc tĩnh thân đều phải do gia đình của thái giám tương lai chi trả. Tuy nhiên, thường thì những gia đình nguyện tiến con trai vào cung đều là người nghèo. Vì thế nếu không có tiền chi trả ngay cho đao phủ, khoản nợ này sẽ được ghi lại, để đến khi thái giám tương lai vào cung sẽ trả dần.
Một điều đặc biệt nữa là, tất cả dương vật bị cắt của người tĩnh thân đều được đao phủ giữ lại, và gọi với cái tên hai chữ: “Bảo vật”. Những “bảo vật” này được bảo quản cẩn thận và được bán lại cho chủ nhân khi có yêu cầu, thường thì bảo vật sẽ trở về với chủ trước khi các thái giám xuống mồ. Theo các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho biết, sở dĩ các quan thái giám muốn lưu lại “bảo vật” của mình do nguyên nhân sau: Một là, khi chết những quan thái giám muốn được toàn thây để khi đầu thai vào kiếp khác, nếu trở thành đàn ông họ cũng sẽ vẫn được nguyên vẹn. Hai là, theo truyền thống của người Trung Quốc, việc cắt đi một phần thân thể do cha mẹ sinh ra sẽ mang tội bất hiếu. Vì thế, để tỏ lòng thành kính và hiếu nghĩa với cha mẹ, khi chết những vị thái giám cũng không muốn thân thể mình thiếu bất cứ bộ phận nào.
Cùng với triều dài của thời đại phong kiến Trung Quốc, thủ thuật tĩnh thân để trở thành quan thái giám trong triều đình cũng đã có lịch sử hàng nghìn năm. Năm 1996, thái giám Tôn Diệu Đình, vị hoạn quan cuối cùng của triều đại phong kiến Trung Hoa đã qua đời, đặt dấu chấm hết cho hiện tượng hoạn quan của Trung Quốc.
Phụ Lục :
Có gia đình chuẩn bị việc cho con mình tương lai sẽ làm thái giám tử khi còn nhỏ. Một bà * (bảo mẫu) thuê để đặc biệt chăm sóc cho đứa trẻ ngay từ khi còn nằm trong nôi. Bà * này có một thủ thuật riêng, mỗi ngày ba lần nắn bóp dịch hoàn đứa trẻ khiến đứa bé đau đến khóc thét lên. Lực bóp cũng tăng thêm và cơ quan sinh dục của đứa bé dần dần bị hủy hoại. Khi lớn lên không những mất khả năng sinh dục mà dương vật còn teo dần khiến đứa trẻ có nhiều nữ tính, không có yết hầu, hai * nhô cao, mông nở, giọng nói lanh lảnh, dáng điệu ẻo lả và trở thành “ái nam, ái nữ”
Trước khi cát thể, người có định trở thành thái giám được đặt nằm nghiêng trên một cái giường thấp và được hỏi lần cuối cùng có hối hận gì khi bị thiến hay không. Nếu người đó trả lời không thì một người sẽ giữ chặt bụng người đó, hai người khác banh hai chân ra giữ cho khỏi cục cựa. Băng vải được quấn chặt ở bụng dưới và hai đùi và bệnh nhân được cho uống một thang thuốc mê (ma phế thang), bộ phận sinh dục của y được chà xát bằng nước ngâm ớt. Cả dương vật lẫn dịch hoàn được cắt xoẹt bằng một nhát dao sát tận đáy, một nút bằng kim loại cắm ngay vào lỗ sinh thực khí và vết thương được băng chặt bằng giấy bản, bên ngoài quấn vải thật chặt.
Người thái giám lập tức được những “đao tử tượng” dìu đi quanh phòng trong hai ba giờ liền trước khi được quyền nằm nghỉ. Người đó vừa đau đớn, vừa khát nước nhưng không được ăn uống và tiểu tiện trong ba ngày. Sau ba ngày, vải băng được cởi ra và cái nút được rút ra và nếu bệnh nhân có thể đi tiểu được ngay thì vụ giải phẫu thành công và qua được thời kỳ nguy hiểm. Nếu người thái giám không tiểu tiện được có nghĩa là đường sinh thực khí đã bị thu hẹp hay bịt kín và chỉ còn đường chờ chết…
Thái Giám Cung Đình Cuối đời Thanh
“Khi bước những bước chân đầu tiên của cuộc đời quan hoạn, sự đau đớn như từng vết dao cứa vào thân thể và xuyên lên tận óc. Mồ hôi cùng với nước mắt đã hoà vào nhau và ướt đẫm trên đôi chân đó” – một hoạn quan đã miêu tả lại những ngày tháng được cho là cực hình nhất của ông, trước khi trở thành người giúp việc cho hoàng đế Quang Tự- vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến Trung Quốc. Vị thái giám này kể tiếp về cuộc tĩnh thân của mình: “Đi được là một điều may mắn, bởi vì có những người đã không thể đứng lên để bước đi sau lần phẫu thuật tàn khốc đó. Họ đã chết do không thể tiểu tiện được sau 3 ngày hoặc do bị nhiễm trùng quá nặng. Đó là những tháng ngày đau đớn và bi thảm nhất trong cuộc đời tôi”
Dụng cụ tĩnh thân
Dụng cụ "tĩnh thân "
Ba cực hình tĩnh thân
Ngay từ xa xưa trong lịch sử Trung Quốc, người ta đã ghi lại một số cách thức để tạo ra một hoạn quan cho triều đình.
Cách thức đầu tiên được gọi với tên: Cắt tận gốc. Có nghĩa là dùng dao sắc hoặc một vật dụng kim loại như kiếm hoặc rìu cắt đứt tận gốc dương vật của nam giới. Cách thức này được miêu tả như một hình thức vô cùng tàn bạo, vì những người sau khi sử dụng phương pháp này đều rất đau đớn, thậm chí có thể bị hôn mê kéo dài.
Cách thứ hai mà người Trung Quốc sử dụng đó là chỉ cắt bỏ dịch hoàn bằng một con dao sắc. Cách thức này nhân đạo ở chỗ, sẽ không cắt hết toàn bộ cơ quan sinh dục của bệnh nhân, mặc dù vậy họ cũng sẽ không thể quan hệ tình dục và có con. (Thực ra cách này ứ có nhân đạo đâu, mà là vô nhân đạo nhất trong các cách).
Sau khi thực hiện một trong hai cách thức vô cùng đau đớn này, thái giám sẽ lập tức được dìu đi quanh phòng trong hai ba giờ liền trước khi được quyền nằm nghỉ. Điều đặc biệt là trong ba ngày tiếp theo, họ không được ăn uống hoặc tiểu tiện. Sau thời điểm 3 ngày, vải băng được cởi ra và nếu bệnh nhân có thể đi tiểu được ngay thì vụ giải phẫu thành công và qua được thời kỳ nguy hiểm. Còn nếu như người thái giám không tiểu tiện được có nghĩa là đường sinh thực khí đã bị thu hẹp hay bịt kín và chỉ còn đường nằm chờ chết.
Ngoài hai phương pháp tĩnh thân trên, có nhiều gia đình chuẩn bị việc tĩnh thân cho con mình tương lai sẽ làm thái giám ngay từ khi còn nhỏ. Một bà mụ được gia đình thuê để có thể chăm sóc đặc biệt cho đứa trẻ ngay từ khi còn nằm trong nôi. Bà mụ này có một thủ thuật riêng, mỗi ngày ba lần nắn bóp dịch hoàn đứa trẻ. Lực bóp cũng tăng thêm khi đứa trẻ đó lớn, vì thế cơ quan sinh dục của đứa bé dần dần bị hủy hoại. Khi lớn lên không những mất khả năng sinh dục mà dương vật còn teo dần khiến đứa trẻ có nhiều nữ tính, không có yết hầu, hai * nhô cao, mông nở, giọng nói lanh lảnh, dáng điệu ẻo lả và trở thành “ái nam, ái nữ”.
Thái Giám - Bức ảnh nổi tiếng nhất thế giới về thái giám TQ
Số người bị nhiễm trùng dẫn tới tử vong do tĩnh thân trước khi trở thành quan hoạn không phải là ít. Vào đời vua Tuyên Đức thời nhà Minh, khi tiến hành tĩnh thân cho 1565 nam giới để thành hoạn quan phục vụ trong triều đình, đã có gần 400 người chết ngay sau đó do bị nhiễm trùng hoặc không cầm được máu. Cũng vào những đời vua tiếp theo, rất nhiều trẻ em nam đã không được sống đến ngày trở thành những viên quan trong nội đình như bố mẹ chúng mong muốn. Theo sử sách ghi lại, trung bình có ít nhất 20% số người được tĩnh thân đã chết trước khi nhìn thấy lầu son gác tía nơi cung vua, phủ chúa.
Cam kết và chuẩn bị
Ở những đời hoàng đế sau này, người ta đã bắt người làm tĩnh thân cùng gia đình phải cam kết về mạng sống và không kiện cáo nếu cuộc phẫu thuật thất bại. Không những thế trước khi tiến hành, người có ý định tĩnh thân được đặt nằm nghiêng trên một cái giường thấp và được hỏi lần cuối cùng có hối hận gì với quyết định trở thành hoạn quan hay không. Nếu cả gia đình và bản thân người tĩnh thân đều đồng ý thì cuộc tĩnh thân mới được tiến hành.
Tuy nhiên, có hai thứ bắt buộc gia đình người tĩnh thân phải đem đến cho đao phủ, thứ nhất là một cái đầu lợn hoặc gà kèm theo rượu. Hai là ba mươi cân gạo, vài chục bắp ngô, vài cân hạt vừng và vài tờ giấy to bản. Trong những vật phẩm này, gạo và ngô để những người tĩnh thân ăn đủ trong vòng một tháng khi nghỉ ngơi tại chỗ. Vừng được rang lên rồi nghiền nhỏ, trở thành một thứ thuốc giữ ấm cho cơ thể theo bài thuốc cổ xưa. Còn giấy to bản sẽ được dùng để bịt kín cửa sổ, tránh gió lùa khi bệnh nhân vẫn phải nằm một chỗ.
Còn đối với đao phủ, trước khi tiến hành tĩnh thân cho bất kỳ ai, họ đều phải chuẩn bị 2 quả mật lợn tươi và một ít cần sa thối. Mật lợn có tác dụng chống sưng viêm, được đao phủ bôi vào vết thương ngoài của người tĩnh thân. Còn cần sa thối được cho bệnh nhân uống trước khi tiến hành tĩnh thân, có tác dụng như một chất gây mê khiến con người sẽ không cảm thấy đau đớn khi quá trình tĩnh thân diễn ra. Khi “phẫu thuật” tiến hành xong, các đao phủ cũng sẽ cho bệnh nhân uống tiếp cần sa thối để giảm thiểu sự bài tiết qua đường sinh dục.
“Nợ vay – trả” hậu tĩnh thân
Chi phí cho việc tĩnh thân đều phải do gia đình của thái giám tương lai chi trả. Tuy nhiên, thường thì những gia đình nguyện tiến con trai vào cung đều là người nghèo. Vì thế nếu không có tiền chi trả ngay cho đao phủ, khoản nợ này sẽ được ghi lại, để đến khi thái giám tương lai vào cung sẽ trả dần.
Một điều đặc biệt nữa là, tất cả dương vật bị cắt của người tĩnh thân đều được đao phủ giữ lại, và gọi với cái tên hai chữ: “Bảo vật”. Những “bảo vật” này được bảo quản cẩn thận và được bán lại cho chủ nhân khi có yêu cầu, thường thì bảo vật sẽ trở về với chủ trước khi các thái giám xuống mồ. Theo các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho biết, sở dĩ các quan thái giám muốn lưu lại “bảo vật” của mình do nguyên nhân sau: Một là, khi chết những quan thái giám muốn được toàn thây để khi đầu thai vào kiếp khác, nếu trở thành đàn ông họ cũng sẽ vẫn được nguyên vẹn. Hai là, theo truyền thống của người Trung Quốc, việc cắt đi một phần thân thể do cha mẹ sinh ra sẽ mang tội bất hiếu. Vì thế, để tỏ lòng thành kính và hiếu nghĩa với cha mẹ, khi chết những vị thái giám cũng không muốn thân thể mình thiếu bất cứ bộ phận nào.
Cùng với triều dài của thời đại phong kiến Trung Quốc, thủ thuật tĩnh thân để trở thành quan thái giám trong triều đình cũng đã có lịch sử hàng nghìn năm. Năm 1996, thái giám Tôn Diệu Đình, vị hoạn quan cuối cùng của triều đại phong kiến Trung Hoa đã qua đời, đặt dấu chấm hết cho hiện tượng hoạn quan của Trung Quốc.
Phụ Lục :
Có gia đình chuẩn bị việc cho con mình tương lai sẽ làm thái giám tử khi còn nhỏ. Một bà * (bảo mẫu) thuê để đặc biệt chăm sóc cho đứa trẻ ngay từ khi còn nằm trong nôi. Bà * này có một thủ thuật riêng, mỗi ngày ba lần nắn bóp dịch hoàn đứa trẻ khiến đứa bé đau đến khóc thét lên. Lực bóp cũng tăng thêm và cơ quan sinh dục của đứa bé dần dần bị hủy hoại. Khi lớn lên không những mất khả năng sinh dục mà dương vật còn teo dần khiến đứa trẻ có nhiều nữ tính, không có yết hầu, hai * nhô cao, mông nở, giọng nói lanh lảnh, dáng điệu ẻo lả và trở thành “ái nam, ái nữ”
Trước khi cát thể, người có định trở thành thái giám được đặt nằm nghiêng trên một cái giường thấp và được hỏi lần cuối cùng có hối hận gì khi bị thiến hay không. Nếu người đó trả lời không thì một người sẽ giữ chặt bụng người đó, hai người khác banh hai chân ra giữ cho khỏi cục cựa. Băng vải được quấn chặt ở bụng dưới và hai đùi và bệnh nhân được cho uống một thang thuốc mê (ma phế thang), bộ phận sinh dục của y được chà xát bằng nước ngâm ớt. Cả dương vật lẫn dịch hoàn được cắt xoẹt bằng một nhát dao sát tận đáy, một nút bằng kim loại cắm ngay vào lỗ sinh thực khí và vết thương được băng chặt bằng giấy bản, bên ngoài quấn vải thật chặt.
Người thái giám lập tức được những “đao tử tượng” dìu đi quanh phòng trong hai ba giờ liền trước khi được quyền nằm nghỉ. Người đó vừa đau đớn, vừa khát nước nhưng không được ăn uống và tiểu tiện trong ba ngày. Sau ba ngày, vải băng được cởi ra và cái nút được rút ra và nếu bệnh nhân có thể đi tiểu được ngay thì vụ giải phẫu thành công và qua được thời kỳ nguy hiểm. Nếu người thái giám không tiểu tiện được có nghĩa là đường sinh thực khí đã bị thu hẹp hay bịt kín và chỉ còn đường chờ chết…