Các nhà phê bình – gồm cả tạp chí Sight & Sound’s – và những người hâm mộ dường như đều mê mẩn bởi hiệu ứng Almodóvar, nhưng theo Peter Mathews nếu xem kỹ một số bộ phim gần đây của nhà làm phim Tây Ban Nha sẽ thấy những chủ đề quen thuộc đang được tái khai thác.
Có vẻ như không hay lắm khi chỉ trích một nhà làm phim luôn ước muốn lấy đề tài tội phạm để làm hài lòng khán giả, nhưng Volver thực sự là một trong những bộ phim không có nhiều cố gắng của Pedro Almodóvar. Tiêu đề phim được bắt nguồn từ điệu tango cổ điển năm 1961 của vùng Estrella Morente (điệu nhạc mà ngôi sao ca nhạc Penelope Cruz đã hát nhép trong suốt cảnh bữa tiệc) và có nghĩa là “trở về” .
Theo dòng mạch phim, người ăn tiêu hoang phí nhất là mẹ của nữ nhân vật chính Raimunda, bà Irene, người đã bị thiêu đến cháy khét trong một ngọn lửa huyền bí và giờ đây hóa thành một hồn ma đầy khả nghi quay về đào bới những bí mật tội lỗi trong quá khứ. Ở đây cũng có sự cộng hưởng cảm xúc khi nàng thơ xưa của đạo diễn, Carmen Maura, vào vai Irene mơ hồ (Sự hợp tác gần đây nhất giữa Almodóvar và Carmen Maura là vào năm 1987 trong bộ phim Những người đàn bà trên bờ vực suy sụp (Women on the Verge of a Nervous Breakdown), và cùng với việc cô nàng xinh đẹp Hollywood Cruz về thăm lại cội nguồn thời kỳ trước khi bị sa ngã và sự xuất hiện thoáng qua của chàng cựu sinh viên với khuôn mặt rắn rỏi như đá granit, Chus Lampreave, bộ phim Volver có nét vui của sự đoàn tụ gia đình.
Tất cả đó cũng có thể đủ thỏa mãn số đông người yêu mến Almodóvar, cho dù những người hay chỉ trích có thể cho rằng một cái tên hay hơn cho bộ phim phải là sự nhàm chán. Người ta thật sự ấn tượng với một người vốn hay làm cho mình khác người, đi ngược lại chủ nghĩa hiện đại, nay đang tiến gần đến thiện ý mà ông đang xây dựng được trong lòng khán giả trên 20 năm qua và hy vọng khán giả sẽ không biết bong bóng đã xẹp đi như thế nào.
Và chính bởi một hiện tượng đáng chú ý như vậy nên nó xứng đáng được gọi là hiệu ứng Almodóvar. Nhà làm phim Soviet và nhà lý luận Lev Kuleshov đã từng nói rằng khán giả sẽ tự khắc luận ra mối liên kết giữa các cảnh quay khác nhau thông qua việc biên tập phim. Thủ pháp của Almodóvar lần này là mở chiếc hộp kẹo hấp dẫn thường dùng- người dùng, những màu sắc đậm, thiết kế phim hào nhoáng, cường điệu, một bản ballad buồn cho nhạc phim, những người phụ nữ gàn dở nhưng bất khuất, những người đàn ông yếu ớt, chỉ như vật trang trí – và ngồi đợi các giải thưởng ùa đến. Dù bằng sự tự ám thị hay bỏ bùa mê, các nhà phê bình và khán giả cũng đều bỏ qua những gì đang diễn ra trước mắt và chỉ xem phim nguyên mẫu của Almodóvar đang hiện ra trong đầu. Ít nhất đó cũng là một cách để giải quyết việc đón nhận một tác phẩm tái sinh chậm chạp như Volver khi bộ phim này được công bố cùng một siêu phẩm khác nhận chung giải nữ diễn viên chính xuất sắc nhất tại liên hoan phim Cannes.
Đó không hẳn là một bộ phim không hay. Quay trở lại thời kỳ phim Thói quen tồi (Dark Habits) (1983) và Dũng sỹ đấu bò ( Matador) (1986) khi mà đạo diễn lần đầu khiến người ta nghĩ ông như là một “cậu bé tồi” của điện ảnh Tây Ban Nha, thì việc làm phim của ông rất thất thường và không có gì đặc sắc. Tuy nhiên, người ta vẫn thích tính không định hình, không có tổ chức trong các bộ phim trước đây của Almodóvar vì nó hợp với sự hài hước kiểu truyện tranh nhiều màu sắc, và tất cả những đặc trưng này đều có vẻ như chống lại sự nghiêm ngặt cần thiết và lòng mộ đạo của thời đại Franco.
Dù vậy, thời kỳ lập dị của Almodóvar cũng không kéo dài và sau hơn một thập niên tạo ra sự phẫn nộ trong quân đội mà không thu được lợi lộc gì, Almodóvar cần phải tiến lên. Trong khoảng thời gian làm phim Cánh hoa bí mật (The Flower of My Secret) (1995) và Xác thịt (Live Flesh) (1997), ông bắt đầu biểu lộ những kỹ thuật làm phim, và giờ đây ít ai có thể sánh được với Almodóvar về sự khéo léo dịu dàng, nhẹ nhàng. Đây không hoàn toàn là một sự tán dương. Khi về già, người đồng hương của Almodóvar là Luis Bunuel đã theo đuổi phong cách thầm lặng để diễn tả sức hấp dẫn mới mà ông nhận ra ở tầng lớp tư sản, đó là chiếc mặt nạ che đi cơn thịnh nộ của người theo chủ nghĩa vô chính phủ ngoan cố. Giá như đó là trường hợp của Almodóvar, tuy nhiên ông lại phần nhiều giống một người đả phá tín ngưỡng đã từng thất bại, Francois Truffaut, người đã chỉ trích nền điện ảnh xuất sắc, lạnh lùng ở thời kỳ ông còn trẻ mới chỉ hoàn thành được nhiệm vụ khi sang giai đoạn ông đến tuổi trung niên.
Ngay cả ở giai đoạn ầm ĩ nhất của mình, Almodóvar cũng chưa tỏ ra quá mạnh để trở thành một người nổi loạn thực sự. Pauline Kael đã từng nổi tiếng với việc gán cho Almodóvar biệt danh giống Chúa với gương mặt của một con người. Sự ví von này quả đúng khi mà Pauline Kael xông xáo đi theo cách ám chỉ bình dân thông minh của đạo diễn người Pháp nhưng mục tiêu chế giễu thì lại ít mới lạ hơn. Những bộ phim gần đây như Tất cả về mẹ tôi (All about my Mother) (1999) và Hãy nói với cô ấy (Talk to her) (2002) đã thả chiếc băng chuyền như thả một dây xúc xích ngon. Những khán giả nào muốn trò tiêu khiển rườm rà, nhiều lý thú vốn không kích thích được họ thì có thể trông đợi ở Almodóvar những bài học nói lên chính kiến về giới tính, pha thêm một chút kích thích khiêu dâm kiểu cổ xưa.
Trong phim Volver còn có đôi trò đùa đầy sự khinh bỉ, qua đó cho thấy phụ nữ cảm thấy hạnh phúc với chức năng thể xác của mình hơn là nam giới. Số này chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ và không hề bất ngờ đối với một đạo diễn mà việc đánh giá dựa nhiều vào thiên hướng lý tưởng hóa phụ nữ. Khi phụ nữ nói Almodóvar hiểu họ sâu sắc hơn bất kỳ nghệ sĩ nam giới nào khác nghĩa là Almodóvar đang tôn lòng tự trọng của họ lên. Chúng ta đều biết những người phụ nữ của Almodóvar lộng lẫy như thế nào – đồng bóng, mơ mộng, cuồng loạn, tâm trạng hay thay đổi vì cáu giận nhưng luôn tiềm ẩn một sức mạnh phi thường, vô tận.
Như thể để chứng thực cho tính hào hiệp viển vông của phái nữ, Almodóvar đã lấy bối cảnh cho phim Volver tại nơi ông sinh ra, La Mancha, nơi có những cơn gió mạnh dữ dội, không ngớt có thể làm cho phụ nữ mất trí, tự tử và giết người. Việc nhân cách hóa thiên nhiên gần như ám chỉ đến chuyển hóa hormon. Nhưng để cân bằng sự mãnh liệt và chỉ ra phụ nữ nhạy cảm, thực tế và thực dụng như thế nào, hãy xem họ chuẩn bị thức ăn tất bật và đáng chú ý ra sao. Gọt khoai tây, thái cà chua, múc súp ra và hâm nóng mứt bằng ngọn lửa nhiều màu sắc, tất cả đều khiến người ta không còn nhớ nhiều đến bộ phim Jeane Dielman năm 1975 của Chantal Akerman mà là những tạp chí “sống tốt” được bày bán sẵn ở siêu thị. Chỉ với việc rửa bát đĩa, vai Raimunda của Cruz đã được phong làm nữ thần nội trợ - máy quay của Almodóvar lia toàn cảnh từ trên nhìn xuống bồn rửa và thấy rõ khe ngực đầy đặn của Raimunda. Ông cũng không bỏ qua cặp mông tròn căng của cô, và khán giả sẽ nghĩ ngay rằng các nữ nhân vật trong phim Volver rất hiểu nguyên tắc sống. Nhảy lò cò quanh làng trong bộ váy hoa bó sát, Cruz gợi lên hình ảnh Sophia Loren trong bộ phim hài về cô nông dân bướng bỉnh Đức Chúa vùng Naples (The God of Naples). Nhưng kết quả không phải là chủ nghĩa hiện thực “màu hồng” mà lại là màu nâu, được từ điển định nghĩa như màu của con bọ chét bị nện chết.
Nếu cốt truyện có vẻ bị xem là tầm thường thì đó là sự thiếu xung đột. Nói như vậy có thể bị xem là đụng chạm vào điều cấm kỵ những phải thẳng thắn rằng Almodóvar tinh tế và thuyết phục hơn khi ông chỉ trích đàn ông. Trogn những lần thể hiện hiếm hoi như thế này (như trong phim Quy luật ham muốn (Law of desire) năm 1987 và Giáo dục tồi tệ (Bad Education) năm 2004), Almodóvar không bị mù quáng bởi sự chiều chuộng phụ nữ quá mức và có thể bán tin bán nghi về một người hung dữ kỳ lạ, tối đen ở đối diện đang nhìn chằm chằm vào ông trong gương. Ở phim Volver, chiếc gương soi được tôn thờ và sùng bái đến nỗi nó làm người ta quên đi mất kịch bản của phim.
Almodóvar thường kết thúc phim một cách đột ngột để ngắm nhìn những khuôn mặt rạng rỡ, tự hào của phụ nữ. Ông mơ tưởng đến một xã hội mẫu hệ mà ở đó phụ nữ bền bỉ cùng nhau xoa dịu những bất hạn và chia sẻ những oán hận. Và đàn ông trở nên thừa trong cảnh hạnh phúc này – gây ra phiền toái nhưng rồi xử lý rất nhanh (ông chồng ăn bám của Raimunda, Paco) hoặc bị loại bỏ sau bức màn che của câu chuyện (người bố vô danh, lạm dụng trẻ em của Raimunda). Cruz là chiếc bông thoa phấn bên cạnh con người táo bạo, cứng cỏi và khao khát của Joan Crawford, một người mà mối quan hệ mệt mỏi với cô con gái hám lợi chỉ luôn đem lại gánh nặng về tình yêu và nỗi đau.
Con gái của Raimunda Paula, đã giết ông bố dượng dâm đãng (Mildred Pierce) nhưng chỉ 5 phút sau là cô bé có thể vượt qua nỗi đau, và trong suốt phần còn lại của phim chỉ ngồi ngoài trời cười nhợt nhạt. Lòng tin mang tính tâm lý không phải là vấn đề của thế giới múa rối Punch and Judy trong Hãy trói chặt em (Tie me up! Tie me down) (1989) hay Kika (1993). Phụ nữ thường xuyên bị đánh đập và bị cưỡng hiếp nhưng lại chỉ đối xử với những con người gây đau khổ cho mình như những con ruồi khó chịu bị đập cho lừ đừ. Giờ thì Almodóvar đúng là một nhà làm phim tư sản, tuy nhiên người ta vẫn đòi hỏi ở ông những tiêu chuẩn cao hơn. Kịch bản phim Volver của Almodóvar giống như một chiếc áo choàng cũ: rất thân thuộc, nếu bạn thấy thích, nhưng không còn mặc được vì có quá nhiều lỗ rách, sứt chỉ và thoang thoảng mùi băng phiến. Raimunda cao thượng đứng ra nhận trách nhiệm về vụ ông chồng bị giết nhưng sau đó lại từ bỏ ý định này. Cô tổ chức kinh doanh nhà hàng (để chứng tỏ với Mildred tham vọng) nhưng những kỹ năng thầu khoán của cô cũng không giúp được gì; một giai đoạn mệt mỏi liên quan đến việc tham gia và show truyền hình thực tế của cô bạn tồi Agustina cũng chẳng đi tới đâu. Ngay cả sự dí dỏm, nghịch ngợm, phóng đại, những nụ hôn của phụ nữ với âm thanh nổ lách tách như pháo hoa cũng không kéo dài lâu. Và liệu người ta có thể tin được bốn nữ diễn viên trong phim – Cruz hào nhoáng, Lola Duenas trong vai người chị nhút nhát, Sole Yohama Cobo trong vai Paula tẻ nhạt, vô vị, Maura trogn vai bà mẹ Irene bị thiêu cháy nhưng đầy nghị lực – lại thuộc cùng một gia đình? Người ta cứ ghép bừa Julia Robert, Naomi Watts, Kirsten Dunst và Barba Streisand vào thay thế các vai thì cũng không tạo nên sự khác biệt nào. Với con đường mà Almodóvar đang đi, ông sẽ sớm sẵn sàng dựng lại phim arthouse như Hoa mộc lan thép (Steel Magnolias).
Almodóvar và Penélopez Cruz
Cuối phim Volver, Almodóvar trích dẫn bộ phim Bellissima năm 1951 của Luchino Visconti với diễn viên chính Anna Magnani – Đây chắc chắn là một lỗi kỹ thuật. Rõ ràng Almodóvar cũng muốn đặt các ngôi sao của mình vào một truyền thống anh hùng và luôn gặp nhiều khó khăn; nhưng hình ảnh thoáng qua của Magnani trong chiếc đồ lót màu đen và đang chải đầu cũng đủ để phê phán những người phụ nữ khác, dù họ rất dễ thương nhưng vẫn tan biến khỏi màn hình.
Theo dòng mạch phim, người ăn tiêu hoang phí nhất là mẹ của nữ nhân vật chính Raimunda, bà Irene, người đã bị thiêu đến cháy khét trong một ngọn lửa huyền bí và giờ đây hóa thành một hồn ma đầy khả nghi quay về đào bới những bí mật tội lỗi trong quá khứ. Ở đây cũng có sự cộng hưởng cảm xúc khi nàng thơ xưa của đạo diễn, Carmen Maura, vào vai Irene mơ hồ (Sự hợp tác gần đây nhất giữa Almodóvar và Carmen Maura là vào năm 1987 trong bộ phim Những người đàn bà trên bờ vực suy sụp (Women on the Verge of a Nervous Breakdown), và cùng với việc cô nàng xinh đẹp Hollywood Cruz về thăm lại cội nguồn thời kỳ trước khi bị sa ngã và sự xuất hiện thoáng qua của chàng cựu sinh viên với khuôn mặt rắn rỏi như đá granit, Chus Lampreave, bộ phim Volver có nét vui của sự đoàn tụ gia đình.
Tất cả đó cũng có thể đủ thỏa mãn số đông người yêu mến Almodóvar, cho dù những người hay chỉ trích có thể cho rằng một cái tên hay hơn cho bộ phim phải là sự nhàm chán. Người ta thật sự ấn tượng với một người vốn hay làm cho mình khác người, đi ngược lại chủ nghĩa hiện đại, nay đang tiến gần đến thiện ý mà ông đang xây dựng được trong lòng khán giả trên 20 năm qua và hy vọng khán giả sẽ không biết bong bóng đã xẹp đi như thế nào.
Và chính bởi một hiện tượng đáng chú ý như vậy nên nó xứng đáng được gọi là hiệu ứng Almodóvar. Nhà làm phim Soviet và nhà lý luận Lev Kuleshov đã từng nói rằng khán giả sẽ tự khắc luận ra mối liên kết giữa các cảnh quay khác nhau thông qua việc biên tập phim. Thủ pháp của Almodóvar lần này là mở chiếc hộp kẹo hấp dẫn thường dùng- người dùng, những màu sắc đậm, thiết kế phim hào nhoáng, cường điệu, một bản ballad buồn cho nhạc phim, những người phụ nữ gàn dở nhưng bất khuất, những người đàn ông yếu ớt, chỉ như vật trang trí – và ngồi đợi các giải thưởng ùa đến. Dù bằng sự tự ám thị hay bỏ bùa mê, các nhà phê bình và khán giả cũng đều bỏ qua những gì đang diễn ra trước mắt và chỉ xem phim nguyên mẫu của Almodóvar đang hiện ra trong đầu. Ít nhất đó cũng là một cách để giải quyết việc đón nhận một tác phẩm tái sinh chậm chạp như Volver khi bộ phim này được công bố cùng một siêu phẩm khác nhận chung giải nữ diễn viên chính xuất sắc nhất tại liên hoan phim Cannes.
Đó không hẳn là một bộ phim không hay. Quay trở lại thời kỳ phim Thói quen tồi (Dark Habits) (1983) và Dũng sỹ đấu bò ( Matador) (1986) khi mà đạo diễn lần đầu khiến người ta nghĩ ông như là một “cậu bé tồi” của điện ảnh Tây Ban Nha, thì việc làm phim của ông rất thất thường và không có gì đặc sắc. Tuy nhiên, người ta vẫn thích tính không định hình, không có tổ chức trong các bộ phim trước đây của Almodóvar vì nó hợp với sự hài hước kiểu truyện tranh nhiều màu sắc, và tất cả những đặc trưng này đều có vẻ như chống lại sự nghiêm ngặt cần thiết và lòng mộ đạo của thời đại Franco.
Dù vậy, thời kỳ lập dị của Almodóvar cũng không kéo dài và sau hơn một thập niên tạo ra sự phẫn nộ trong quân đội mà không thu được lợi lộc gì, Almodóvar cần phải tiến lên. Trong khoảng thời gian làm phim Cánh hoa bí mật (The Flower of My Secret) (1995) và Xác thịt (Live Flesh) (1997), ông bắt đầu biểu lộ những kỹ thuật làm phim, và giờ đây ít ai có thể sánh được với Almodóvar về sự khéo léo dịu dàng, nhẹ nhàng. Đây không hoàn toàn là một sự tán dương. Khi về già, người đồng hương của Almodóvar là Luis Bunuel đã theo đuổi phong cách thầm lặng để diễn tả sức hấp dẫn mới mà ông nhận ra ở tầng lớp tư sản, đó là chiếc mặt nạ che đi cơn thịnh nộ của người theo chủ nghĩa vô chính phủ ngoan cố. Giá như đó là trường hợp của Almodóvar, tuy nhiên ông lại phần nhiều giống một người đả phá tín ngưỡng đã từng thất bại, Francois Truffaut, người đã chỉ trích nền điện ảnh xuất sắc, lạnh lùng ở thời kỳ ông còn trẻ mới chỉ hoàn thành được nhiệm vụ khi sang giai đoạn ông đến tuổi trung niên.
Ngay cả ở giai đoạn ầm ĩ nhất của mình, Almodóvar cũng chưa tỏ ra quá mạnh để trở thành một người nổi loạn thực sự. Pauline Kael đã từng nổi tiếng với việc gán cho Almodóvar biệt danh giống Chúa với gương mặt của một con người. Sự ví von này quả đúng khi mà Pauline Kael xông xáo đi theo cách ám chỉ bình dân thông minh của đạo diễn người Pháp nhưng mục tiêu chế giễu thì lại ít mới lạ hơn. Những bộ phim gần đây như Tất cả về mẹ tôi (All about my Mother) (1999) và Hãy nói với cô ấy (Talk to her) (2002) đã thả chiếc băng chuyền như thả một dây xúc xích ngon. Những khán giả nào muốn trò tiêu khiển rườm rà, nhiều lý thú vốn không kích thích được họ thì có thể trông đợi ở Almodóvar những bài học nói lên chính kiến về giới tính, pha thêm một chút kích thích khiêu dâm kiểu cổ xưa.
Trong phim Volver còn có đôi trò đùa đầy sự khinh bỉ, qua đó cho thấy phụ nữ cảm thấy hạnh phúc với chức năng thể xác của mình hơn là nam giới. Số này chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ và không hề bất ngờ đối với một đạo diễn mà việc đánh giá dựa nhiều vào thiên hướng lý tưởng hóa phụ nữ. Khi phụ nữ nói Almodóvar hiểu họ sâu sắc hơn bất kỳ nghệ sĩ nam giới nào khác nghĩa là Almodóvar đang tôn lòng tự trọng của họ lên. Chúng ta đều biết những người phụ nữ của Almodóvar lộng lẫy như thế nào – đồng bóng, mơ mộng, cuồng loạn, tâm trạng hay thay đổi vì cáu giận nhưng luôn tiềm ẩn một sức mạnh phi thường, vô tận.
Như thể để chứng thực cho tính hào hiệp viển vông của phái nữ, Almodóvar đã lấy bối cảnh cho phim Volver tại nơi ông sinh ra, La Mancha, nơi có những cơn gió mạnh dữ dội, không ngớt có thể làm cho phụ nữ mất trí, tự tử và giết người. Việc nhân cách hóa thiên nhiên gần như ám chỉ đến chuyển hóa hormon. Nhưng để cân bằng sự mãnh liệt và chỉ ra phụ nữ nhạy cảm, thực tế và thực dụng như thế nào, hãy xem họ chuẩn bị thức ăn tất bật và đáng chú ý ra sao. Gọt khoai tây, thái cà chua, múc súp ra và hâm nóng mứt bằng ngọn lửa nhiều màu sắc, tất cả đều khiến người ta không còn nhớ nhiều đến bộ phim Jeane Dielman năm 1975 của Chantal Akerman mà là những tạp chí “sống tốt” được bày bán sẵn ở siêu thị. Chỉ với việc rửa bát đĩa, vai Raimunda của Cruz đã được phong làm nữ thần nội trợ - máy quay của Almodóvar lia toàn cảnh từ trên nhìn xuống bồn rửa và thấy rõ khe ngực đầy đặn của Raimunda. Ông cũng không bỏ qua cặp mông tròn căng của cô, và khán giả sẽ nghĩ ngay rằng các nữ nhân vật trong phim Volver rất hiểu nguyên tắc sống. Nhảy lò cò quanh làng trong bộ váy hoa bó sát, Cruz gợi lên hình ảnh Sophia Loren trong bộ phim hài về cô nông dân bướng bỉnh Đức Chúa vùng Naples (The God of Naples). Nhưng kết quả không phải là chủ nghĩa hiện thực “màu hồng” mà lại là màu nâu, được từ điển định nghĩa như màu của con bọ chét bị nện chết.
Nếu cốt truyện có vẻ bị xem là tầm thường thì đó là sự thiếu xung đột. Nói như vậy có thể bị xem là đụng chạm vào điều cấm kỵ những phải thẳng thắn rằng Almodóvar tinh tế và thuyết phục hơn khi ông chỉ trích đàn ông. Trogn những lần thể hiện hiếm hoi như thế này (như trong phim Quy luật ham muốn (Law of desire) năm 1987 và Giáo dục tồi tệ (Bad Education) năm 2004), Almodóvar không bị mù quáng bởi sự chiều chuộng phụ nữ quá mức và có thể bán tin bán nghi về một người hung dữ kỳ lạ, tối đen ở đối diện đang nhìn chằm chằm vào ông trong gương. Ở phim Volver, chiếc gương soi được tôn thờ và sùng bái đến nỗi nó làm người ta quên đi mất kịch bản của phim.
Almodóvar thường kết thúc phim một cách đột ngột để ngắm nhìn những khuôn mặt rạng rỡ, tự hào của phụ nữ. Ông mơ tưởng đến một xã hội mẫu hệ mà ở đó phụ nữ bền bỉ cùng nhau xoa dịu những bất hạn và chia sẻ những oán hận. Và đàn ông trở nên thừa trong cảnh hạnh phúc này – gây ra phiền toái nhưng rồi xử lý rất nhanh (ông chồng ăn bám của Raimunda, Paco) hoặc bị loại bỏ sau bức màn che của câu chuyện (người bố vô danh, lạm dụng trẻ em của Raimunda). Cruz là chiếc bông thoa phấn bên cạnh con người táo bạo, cứng cỏi và khao khát của Joan Crawford, một người mà mối quan hệ mệt mỏi với cô con gái hám lợi chỉ luôn đem lại gánh nặng về tình yêu và nỗi đau.
Con gái của Raimunda Paula, đã giết ông bố dượng dâm đãng (Mildred Pierce) nhưng chỉ 5 phút sau là cô bé có thể vượt qua nỗi đau, và trong suốt phần còn lại của phim chỉ ngồi ngoài trời cười nhợt nhạt. Lòng tin mang tính tâm lý không phải là vấn đề của thế giới múa rối Punch and Judy trong Hãy trói chặt em (Tie me up! Tie me down) (1989) hay Kika (1993). Phụ nữ thường xuyên bị đánh đập và bị cưỡng hiếp nhưng lại chỉ đối xử với những con người gây đau khổ cho mình như những con ruồi khó chịu bị đập cho lừ đừ. Giờ thì Almodóvar đúng là một nhà làm phim tư sản, tuy nhiên người ta vẫn đòi hỏi ở ông những tiêu chuẩn cao hơn. Kịch bản phim Volver của Almodóvar giống như một chiếc áo choàng cũ: rất thân thuộc, nếu bạn thấy thích, nhưng không còn mặc được vì có quá nhiều lỗ rách, sứt chỉ và thoang thoảng mùi băng phiến. Raimunda cao thượng đứng ra nhận trách nhiệm về vụ ông chồng bị giết nhưng sau đó lại từ bỏ ý định này. Cô tổ chức kinh doanh nhà hàng (để chứng tỏ với Mildred tham vọng) nhưng những kỹ năng thầu khoán của cô cũng không giúp được gì; một giai đoạn mệt mỏi liên quan đến việc tham gia và show truyền hình thực tế của cô bạn tồi Agustina cũng chẳng đi tới đâu. Ngay cả sự dí dỏm, nghịch ngợm, phóng đại, những nụ hôn của phụ nữ với âm thanh nổ lách tách như pháo hoa cũng không kéo dài lâu. Và liệu người ta có thể tin được bốn nữ diễn viên trong phim – Cruz hào nhoáng, Lola Duenas trong vai người chị nhút nhát, Sole Yohama Cobo trong vai Paula tẻ nhạt, vô vị, Maura trogn vai bà mẹ Irene bị thiêu cháy nhưng đầy nghị lực – lại thuộc cùng một gia đình? Người ta cứ ghép bừa Julia Robert, Naomi Watts, Kirsten Dunst và Barba Streisand vào thay thế các vai thì cũng không tạo nên sự khác biệt nào. Với con đường mà Almodóvar đang đi, ông sẽ sớm sẵn sàng dựng lại phim arthouse như Hoa mộc lan thép (Steel Magnolias).
Cuối phim Volver, Almodóvar trích dẫn bộ phim Bellissima năm 1951 của Luchino Visconti với diễn viên chính Anna Magnani – Đây chắc chắn là một lỗi kỹ thuật. Rõ ràng Almodóvar cũng muốn đặt các ngôi sao của mình vào một truyền thống anh hùng và luôn gặp nhiều khó khăn; nhưng hình ảnh thoáng qua của Magnani trong chiếc đồ lót màu đen và đang chải đầu cũng đủ để phê phán những người phụ nữ khác, dù họ rất dễ thương nhưng vẫn tan biến khỏi màn hình.
Trương Lê Quân
Theo Sight and Sound
Theo Sight and Sound